căn hộ 8x rainbow tinh dầu bưởi

Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 2)

2. Thách thức hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn

Hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn đầy thử thách, vẫn còn một khoảng cách nhất định để đạt được mục tiêu chung nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế chất lượng cao. Quá trình đó là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất phát từ nhiều nguyên do khác nhau về môi trường kinh doanh, pháp lý và văn hóa trong mỗi quốc gia. Do đó, xu thế hội tụ kế toán của một số quốc gia có thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.

Xem Phần 1 TẠI ĐÂY

2.3. Úc

Úc đã có những bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ CMKT Úc sang IAS/IFRS từ năm 2002 và Úc đã chính thức chuyển sang áp dụng IAS/IFRS từ ngày 01.01.2005. Úc là một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng IAS/IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán của Úc (AASB) đã xem xét việc ban hành IAS/IFRS tại riêng quốc gia. Theo đó, CMKT Úc đã có sự chỉnh sửa cho tương thích với môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt để phù hợp với Úc. CMKT Úc không đơn thuần là IAS/IFRS mà bản chất đã có sự thay đổi theo hình thức A-IAS/IFRS (IAS/IFRS đã được chuyển đổi theo Úc). Sự điều chỉnh của A-IAS/IFRS bao gồm những thay đổi trong việc lựa chọn được ban hành theo IAS/IFRS và bổ sung những hướng dẫn và thay đổi một số thuật ngữ khác so với IAS/IFRS. Chính sự điều chỉnh, bổ sung này dẫn đến A-IAS/IFRS không nhất quán với IAS/IFRS. Việc áp dụng IAS/IFRS theo phương cách trung lập A-IAS/IFRS của Úc đã tạo nên nhiều khác biệt không chỉ trong hệ thống CMKT mà ngay cả các công ty khi áp dụng vào thực tế.

Trong nghiên cứu về việc đo lường giá trị hợp lý, lựa chọn chính sách kế toán của hai quốc gia Anh và Úc, David Cairns et al. (2008) đã sử dụng mô hình 228 công ty tương ứng mỗi quốc gia 114 để đo lường trên BCTC những năm 2004 - 2006 với 20 khoản mục. Nhìn chung kết quả cho thấy việc thực thi IAS/IFRS của Úc không có sự khác biệt giữa trước và sau khi áp dụng IAS/IFRS. Ngoài ra, trong một nghiên cứu thực nghiệm của Tyrone Carlin, Nigel Finch (2008) nhằm xác định giá trị lợi thế thương mại được thực hiện bởi các công ty Úc áp dụng theo IAS/IFRS trong hai năm 2006 và 2007. Mô hình nghiên cứu đã sử dụng BCTC của 50 công ty niêm yết lớn nhất của Úc. Qua thực nghiệm cho thấy, mức độ các công ty áp dụng nội dung về lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán hầu hết không thỏa mãn yêu cầu. Như vậy, CMKT của Úc hướng tới IAS/IFRS nhưng thực tế BCTC của các công ty không nhất quán. Các công ty không sẵn lòng thực hiện theo những yêu cầu IAS/IFRS.

Mặc dù Úc chấp nhận toàn bộ các chuẩn mực theo IAS/IFRS nhưng Úc vẫn có những điều chỉnh nhất định cho phù hợp với đặc điểm riêng của quốc gia. Việc xây dựng CMKT quốc gia như Úc là một hướng tiếp cận riêng, thể hiện chính sách trung lập trong việc thực thi CMKT quốc tế.

2.4. Trung Quốc

Bộ Tài chính (BTC) Trung Quốc bắt đầu thiết lập CMKT từ năm 1988. Cuối năm 1992, BTC đã phát triển chuẩn mực cơ bản của kế toán cho hoạt động doanh nghiệp (tương tự khuôn mẫu lý thuyết). Điều này đánh dấu sự kiện trong cải cách kế toán của Trung Quốc, bãi bỏ hệ thống kế toán truyền thống và sử dụng chuẩn mực quốc tế. Sau đó, khuôn mẫu lý thuyết ban hành năm 1992 được thay thế bởi 16 CMKT và những qui định khác như hệ thống kế toán cho hoạt động doanh nghiệp (ASBE) ban hành 2001. Mục đích của ASBE là so sánh thông tin tài chính, hạch toán tách biệt giữa thuế và kế toán, đảm bảo hội nhập với thực hành kế toán được chấp nhận bởi quốc tế. Tuy nhiên, trước sức ép hội nhập kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chấp nhận xây dựng hệ thống CMKT mới theo hướng hội tụ kế toán quốc tế trên cơ sở IAS/IFRS gồm 38 CMKT có hiệu lực từ ngày 1.1.2007. Việc chuyển đổi chuẩn mực Trung Quốc gần với IAS/IFRS nhưng chuẩn mực mới không phải dịch lại theo IAS/IFRS mặc dù vẫn dựa trên nền tảng, nguyên tắc cơ bản. Nhìn chung, xét về hệ thống chuẩn mực, CMKT Trung Quốc đã hình thành trên nền tảng của IAS/IFRS.

Tuy nhiên, giữa CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS có những điểm khác biệt rõ rệt, cụ thể CMKT Trung Quốc không phát triển và áp dụng đầy đủ giá trị hợp lý, yêu cầu công bố các bên liên quan được chỉnh sửa lại cũng như không thực hiện đánh giá tổn thất tài sản. Trong nghiên cứu của Jean Jinghan Chen and Peng Cheng (2007), về mức độ hội tụ của CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS trong thực tế đi đến kết luận rằng Trung Quốc chỉ hội tụ về hình thức vì CMKT Trung Quốc được che đậy bên ngoài với IAS/IFRS nhưng thực chất Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách kế toán doanh nghiệp. Trong nghiên cứu của Tymothy Doupnik, Hector Perera (2007) nhìn nhận rằng phương cách tiếp cận của Trung Quốc mang tính “đối phó” giữa IAS/IFRS và thực tế. Phương pháp tiếp cận này thực chất chỉ là hội tụ bên ngoài, được che đậy bởi hệ thống CMKT quốc tế nhưng thực tế Trung Quốc không vận dụng theo những nguyên tắc chuẩn mực mà vẫn thực thi chính sách kế toán doanh nghiệp. Qua đó cho thấy, một thời gian dài Trung Quốc đã vận dụng “chiến thuật” nhằm thích ứng dần với những cải cách trong hệ thống kế toán quốc gia. Bản chất thận trọng vẫn được quan tâm trong việc thực thi chính sách kinh tế toàn cầu.

Trước sức ép ngày càng gia tăng từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong hội nghị nhóm các quốc gia phát triển (G20) được tổ chức tại London tháng 4.2009, theo đó Trung Quốc phải xây dựng lộ trình hội tụ đầy đủ CMKT quốc tế. Trong báo cáo dự thảo của Ngân hàng thế giới được công bố tháng 10.2009 về lộ trình và tiếp tục hội tụ đầy đủ giữa ASBE với IAS/IFRS. Theo báo cáo, nhìn chung ASBE về cơ bản đã đáp ứng hội tụ CMKT quốc tế nhưng CMKT phải được hội tụ một cách toàn diện và đầy đủ. Đồng thời, ASBE cam kết giai đoạn chuyển đổi từ 2009 đến kết thúc 2011 và đã lên chương trình những nội dung cơ bản cho lộ trình hội tụ đầy đủ.

Gần đây, BTC của Trung Quốc tuyên bố quốc gia này áp dụng đầy đủ theo IFRS nhưng có một số loại trừ. Đồng thời BTC cho biết tất cả các công ty có qui mô lớn và vừa sẽ phải áp dụng theo CMKT từ năm 2012.

Nhìn chung, hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực của các quốc gia trên thế giới. Những ích lợi từ việc sử dụng ngôn ngữ kinh tế chung toàn cầu đã giải quyết được bài toán thống nhất thông tin trình bày trên BCTC của các quốc gia, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực kinh tế thế giới đang hướng tới chuẩn mực quốc tế và tích cực ủng hộ, tham gia, chung tay góp sức trong việc xây dựng chuẩn mực quốc tế thành chuẩn mực toàn cầu chất lượng cao. Tuy nhiên, viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn là cả một quá trình đầy thử thách bởi thực trạng việc vận dụng chuẩn mực quốc tế vào chính các quốc gia và từng khu vực theo những phương pháp tiếp cận khác nhau, điển hình có khu vực kinh tế như EU áp dụng thống nhất IAS/IFRS nhưng từng chuẩn mực phải được thông qua tổ chức; có quốc gia áp dụng nguyên bản IAS/IFRS như Úc nhưng có chỉnh sửa, bổ sung thể hiện chính sách trung lập trong quá trình thực thi; có quốc gia áp dụng IAS/IFRS mang tính hình thức như Trung Quốc, được thể hiện bên ngoài là IAS/IFRS nhưng thực tế vẫn thực thi chế độ, chính sách kế toán doanh nghiệp; và lại có quốc gia hình thành những “sức ép” về kinh tế, chính trị như Mỹ nhằm đạt đến sự hội tụ CMKT quốc tế nhưng “có điều kiện”. Mặc dù viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế còn nhiều cản trở và khó khăn phải hướng tới để đạt được mục tiêu chung nhưng hội tụ kế toán quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong tiến trình quốc tế hóa kinh tế.

3. Những kinh nghiệm cho Việt Nam trong tiến trình hội tụ kế toán quốc tế

Từ phân tích trên, có thể thấy tiến trình hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế nhưng quá trình đó cũng đầy cam go và phức tạp. Trước tình hình đó, một quốc gia đang phát triển như Việt Nam không thể đứng ngoài dòng chảy hội nhập quốc tế. Song, Việt Nam cần phải nhận định đúng đắn tình hình để có những lộ trình thích hợp, đáp ứng phát triển kinh tế.

Có thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi nhiều yếu tố tụ hội từ môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian, mức độ chi phối, ảnh hưởng của các yếu tố đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt Nam mang bản sắc riêng. Xét ở môi trường kinh doanh, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây có những biến chuyển tích cực, đặc biệt là TTCK đã có những tiến triển nhất định. Mức độ lạm phát trong nền kinh tế được kiểm soát, ổn định không ảnh hưởng đến biến động của nền kinh tế. Đối với môi trường pháp lý, Nhà nước giữ vai trò quyết định trong hệ thống kế toán quốc gia, cụ thể Luật kế toán được Quốc hội ban hành, các chế độ tài chính được ban hành bởi Thủ tướng chính phủ, hệ thống CMKT và các thông tư hướng dẫn được BTC ban hành. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán bị chi phối bởi các qui định của thuế. Trước đây lợi nhuận kế toán gần giống lợi nhuận của thuế như các qui định trích lập khấu hao TSCĐ, doanh thu nội bộ... Tuy nhiên từ những năm 2001, những quan điểm đã dần có những thay đổi, cụ thể các đạo luật đã giảm bớt mức độ chi phối cho hoạt động kế toán bằng việc cho phép trích lập các khoản dự phòng, hình thành các khoản thuế hoãn lại… Hơn nữa, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) mặc dù thời gian hình thành và hoạt động đã lâu từ những năm 1994, nhưng không có vai trò lập qui cũng như mức độ ảnh hưởng và chi phối còn hạn chế. Riêng về môi trường văn hóa, sự tác động của văn hóa đến hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những nghiên cứu chính thống. Tuy nhiên về cơ bản, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều theo văn hóa Á Đông, bản chất thận trọng được đề cao, nhấn mạnh đến sự tuân thủ các qui định, hạn chế những vấn đề mang tính xét đoán.

Từ những yếu tố trên, có thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam mang những đặc điểm cơ bản: hệ thống kế toán được qui định thống nhất từ chứng từ, sổ kế toán, tài khoản và các BCTC; hệ thống kế toán còn chịu ảnh hưởng của các qui định về thuế; hệ thống kế toán liên quan đến ghi nhận và đo lường đảm bảo tính tuân thủ thể hiện qua việc ghi nhận giá gốc đối với các tài sản, hạn chế các xét đoán theo giá hợp lý và mức độ trình bày và công bố thông tin trên BCTC còn hạn chế, mang tính bảo thủ. Như vậy, có thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam do Nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối đến hệ thống kế toán, không những thế kế toán còn chịu ảnh hưởng bởi các qui định của thuế.

Từ thực trạng xu hướng hội tụ kế toán quốc tế kết hợp những đặc điểm cơ bản trong hệ thống kế toán Việt Nam, cho thấy khó có thể áp dụng toàn bộ IAS/IFRS cho hệ thống kế toán Việt Nam. Hệ thống IAS/IFRS dường như thích hợp đối với những quốc gia phát triển nhưng chưa phù hợp trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Do đó, trong giai đoạn đầu, nên tiếp cận theo xu hướng hoàn hợp theo khu vực mà cụ thể là khu vực đối với các công ty niêm yết. Đây là hướng đi mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Theo đó, hệ thống CMKT Việt Nam có thể bao gồm hai phần, một phần dành cho các công ty niêm yết, phần còn lại cho các công ty không niêm yết. Đối với các công ty niêm yết, CMKT được thực thi theo các IAS/IFRS. Riêng đối với các công ty không niêm yết áp dụng các CMKT Việt Nam hiện hành nhưng theo hướng giản lược những nội dung phức tạp trong chuẩn mực. Điều này thể hiện sự hài hòa, linh hoạt nhằm tránh những biến động nhưng đảm bảo cho tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế./.

kiemtoan.com.vn